CÔNG ĐỨC TRÌ GIỚI
(Tăng Nhất A Hàm, quyển 1 trang 168, 206; quyển 3 từ trang 439 đến 446. Tạp A Hàm quyển 1 Kinh 241 trang 446, quyển 2 Kinh 640 trang 609. Phật Học Phổ Thông quyển 4 từ trang 86)
I )- Trì Giới là gì?
Trì là giữ chặt chẽ, Giới là những điều ngăn cấm không được làm, không được phạm. Trì Giới là thực hành những luật lệ mà đức Phật đặt ra cho Phật tử thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp. Nhờ có giữ giới tâm mới được ổn định, tại sao? Vì nếu không giữ giới như một người giết người cướp của chẳng hạn, tâm người ấy tất nhiên là phải dao động mạnh nếu không nói là loạn động, nên không thể định tĩnh được, do đó người giữ giới tâm dễ được định tĩnh. Tâm được định huệ mới sinh, huệ phát sinh mới dứt trừ được vô minh, và khi hết vô minh sẽ hết sinh tử luân hồi, tức là minh tâm kiến tánh, đốn ngộ Phật tánh vậy.
Giới luật của Phật đặt ra không phải để trừng phạt người không thi hành, mà để giúp cho những người nào thi hành nghiêm chỉnh sẽ hưởng được qủa vị tốt đẹp. Những giới luật chỉ có mục đích làm cho các đệ tử Phật được mau chóng đạt qủa Thánh trong khi tu hành.
II )- Có mấy loại giới luật? Có ba loại:
1)- Giới luật cho Phật tử tại gia (Cư sĩ):
Phật tử tại gia gồm cư sĩ nam, cư sĩ nữ. Những Phật tử tại gia có những giới: Ngũ giới, Bát quan trai giới, Bồ tát giới cho cả hai loại Phật tử tại gia và xuất gia.
1- Ngũ giới: Phật tử tại gia có thể giữ từ một tới năm giới là: 1- Không sát sinh, 2- Không trộm cướp, 3- Không tà dâm, 4- Không nói dối, 5- Không uống rượu.
2- Bát quan trai giới (tám cửa ngăn): Quan là cửa, trai là sau giờ ngọ không được ăn. tám cửa ngăn chặn tám điều tội lỗi là: 1- Không sát sinh, 2- Không trộm cướp, 3- Không dâm dục, (chứ không phải là không tà dâm như trong 5 giới ), 4- Không nói dối, 5- Không uống rượu, 6- Không trang điểm, ca hát hay dự cuộc vui, 7- Không nằm ngồi chỗ êm ấm cao sang (để ngăn ngừa sự qúa sung sướng nảy sinh lòng tham dục), 8- Ăn chay không qúa giờ ngọ (để ngừa buồn ngủ, bệnh và dễ nhất tâm). Tu tám cửa trai giới chỉ trong vòng 24 giờ tức là một ngày tròn mà thôi. Hành giả nên thọ giới tại chùa hoặc nơi tịnh thất thanh tịnh , khi hiểu rõ chương trình, nghi thức rồi, có thể tự thọ giới tại nhà.. Nên sắp xếp công việc để thọ bát quan trai giới mỗi tháng một lần, vào ngày mồng tám, mười bốn, rằm, v.v…, nếu hoàn cảnh thuận tiện, thọ nhiều lần càng tốt. Trong khi thọ tám cửa trai giới, thân khẩu ý của hành giả được thanh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ nhưng rất qúy báu, hơn cả một đời của người không tu hành gì cả. Công đức thọ bát quan trai giới 01 ngày ở cõi ta bà bằng 1000 năm ở cõi trời.
3.THẬP THIỆN GIỚI: Nội dung mười điều thiện:
1. Không sát sanh: không sát hại tất cả chúng sinh mà còn tu pháp phóng sanh. 2. Không trộm cắp: không trộm cắp tài vật của người khác mà còn làm việc bố thí giúp đỡ người nghèo khổ. 3. Không tà hạnh, tà dâm: không tà hạnh mà còn làm thanh tịnh phạm hạnh.
4. Không vọng ngữ: không nói dối với người mà còn nói lời chân thật. 5. Không nói lưỡi đôi chiều: không ở bên này nói xấu bên, ở bên kia nói xấu bên này, sinh mâu thuẫn trong lòng người khiến phát sanh xung đột và đấu tranh. Phải nói lời hòa hợp lợi ích ĐẠO và ĐỜI. 6. Không nói lời hung ác: không nói lời thô bạo độc ác hay sỉ nhục người khác mà còn nói lời nhu nhuyến nhẹ nhàng- ái ngữ. 7. Không ỷ ngữ: không vì quyền lợi riêng mình mà nói lời hoa mỹ hoặc dùng lý lẽ ngụy biện bóp méo sự thật phải nói lời thật trung thực8. Không tham dục: không tham trước sắc dục trần cảnh, phải giử gìn tâm thanh tịnh phạm hạnh. 9. Không sân hận: không phẫn nộ oán giận người mà luôn luôn hiền từ nhẫn nại.
10. Không tà kiến: không nên bảo thủ chấp trước mà luôn luôn tu tập chánh kiến.
1. Không sát sanh: không sát hại tất cả chúng sinh mà còn tu pháp phóng sanh. 2. Không trộm cắp: không trộm cắp tài vật của người khác mà còn làm việc bố thí giúp đỡ người nghèo khổ. 3. Không tà hạnh, tà dâm: không tà hạnh mà còn làm thanh tịnh phạm hạnh.
4. Không vọng ngữ: không nói dối với người mà còn nói lời chân thật. 5. Không nói lưỡi đôi chiều: không ở bên này nói xấu bên, ở bên kia nói xấu bên này, sinh mâu thuẫn trong lòng người khiến phát sanh xung đột và đấu tranh. Phải nói lời hòa hợp lợi ích ĐẠO và ĐỜI. 6. Không nói lời hung ác: không nói lời thô bạo độc ác hay sỉ nhục người khác mà còn nói lời nhu nhuyến nhẹ nhàng- ái ngữ. 7. Không ỷ ngữ: không vì quyền lợi riêng mình mà nói lời hoa mỹ hoặc dùng lý lẽ ngụy biện bóp méo sự thật phải nói lời thật trung thực8. Không tham dục: không tham trước sắc dục trần cảnh, phải giử gìn tâm thanh tịnh phạm hạnh. 9. Không sân hận: không phẫn nộ oán giận người mà luôn luôn hiền từ nhẫn nại.
10. Không tà kiến: không nên bảo thủ chấp trước mà luôn luôn tu tập chánh kiến.
Đó là nội dung thực tiễn của tu Thập Thiện giới. Tầm quan trọng của Thập Thiện giới, người Phật tử sau khi quy y Tam Bảo nên thọ Thập Thiện giới, vì Thập Thiện giới là căn bản các thiện pháp căn bản cho Bồ Tát giới mà Chư Phật ba đời đều khen ngợi. Bồ Tát thị hiện độ đời lấy Thập Thiện giới để thực hiện sự giáo hóa chúng sanh. Đức Phật có đề cập rõ ý nghĩa này: “Này Xá Lợi Phất, ông nên nỗ lực hoằng dương đạo Pháp, khai mở Pháp môn Yết Ma thọ Thập Thiện giới để phá trừ mười điều bất thiện nghiệp” (Thọ Thập Thiện Giới Kinh). Trong lục độ Ba La Mật của Bồ Tát hạnh, yếu tố trì giới tức là thực hiện trọn vẹn ý nghĩa của Thập Thiện giới. Trong Luận Đại Trí Độ cuốn 46 có dạy: “Thập Thiện, hữu Phật vô Phật thường hữu”, nghĩa là Thập Thiện giới lúc có Phật tại thế hay lúc Phật không tại thế, Thập Thiện giới đều vĩnh viễn có.
2)- Giới luật cho Phật tử xuất gia: Có bốn loại Phật tử xuất gia là Sa Di, Sa Di Ni, Tỳ Kheo, và Tỳ Kheo Ni.
2)- Giới luật cho Phật tử xuất gia: Có bốn loại Phật tử xuất gia là Sa Di, Sa Di Ni, Tỳ Kheo, và Tỳ Kheo Ni.
1- Sa Di và Sa Di Ni là những người nam và nữ mới xuất gia phải giữ 10 giới gồm: 1- Không sát sinh, 2- Không trộm cướp, 3- Không dâm dục, 4- Không nói dối, 5- Không uống rượu, 6- Không trang điểm, 7- Không ca hát hoặc dự các cuộc vui nhộn, 8- Không nằm ngồi chỗ êm ấm cao sang, 9- Phải ăn chay và không qúa giờ ngọ, 10- Không dùng vàng bạc châu báu.
2- Tỳ Kheo: Là Tăng phải giữ 250 giới, gồm cả những giới cho Sa Di.
3- Tỳ Kheo Ni: Là Ni phải giữ 348 giới, gồm cả những giới cho Sa Di và Tỳ Kheo.
Ngoài ra còn một loại Phật tử xuất gia nữa, đó là Thức Xoa Ma Na, đó là người chưa đủ tuổi, chưa phải là Sa Di hay Sa Di Ni, giữ 6 giới và tập 296 hạnh giới.
Những giới dành cho Tăng Ni rất nhiều và chi tiết, không thể kể hết ra ở đây. Những giới luật này là những hàng rào cản không cho tu sĩ làm với mục đích giúp cho giới tu sĩ không vướng mắc vào những việc của thế gian để tâm được ổn định thanh tịnh, sẽ đưa người tu đến giải thoát. Như tham gia thế sự tranh cãi hơn thua, buôn bán như người thế tục v.v… Người tu hành chân chính không bao giờ làm các việc ấy, vì khi làm tâm trí sẽ bận bịu với các việc ấy không thể yên ổn tu hành được.
3)- Bồ Tát giới: Bồ Tát giới chung cho cả Phật tử tại gia và Phật tử xuất gia. Những Phật tử phát tâm tu hạnh Bồ Tát giới là để rộng bề làm Phật sự và hóa độ chúng sinh. Bồ Tát giới gồm có:
1- Nhiếp luật nghi giới: Người thọ trì Bồ Tát giới quyết giữ 10 giới trọng và 48 khinh giới, nghĩa là quyết không phạm một việc ác nào cả.
2- Nhiếp thiện pháp giới: Người thọ trì Bồ Tát giới quyết làm tất cả các việc lành.
3- Nhiêu ích hữu tình giới: Người thọ trì Bồ Tát giới quyết tu hạnh từ bi hỉ xả, làm tất cả các điều lợi ích cho tất cả chúng sanh, không một loài nào mà không hóa độ.
III )- Trì giới như thế nào? Có hai cách:
1)- Trì giới chấp tướng: Là trì giới do vì danh được người ta khen mới đi giới đàn về được truyền thọ giới, vì bị người khác ép thọ giới, hay nể người khác mà thọ giới, Vì ganh đua hay tự hào mà trì giới. Những loại trì giới như thế, chỉ có bề ngoài, miễn cưỡng, tự cao tự đại, giả dối đánh lừa người khác. Trì giới như thế không có lợi ích gì cả, vì bên trong ô nhiễm xấu xa.
2)- Trì giới vô tướng: Trì giới không chấp tướng, theo đúng các điều Phật dạy mà thi hành, không vì danh hay bị ép, không vì nể vì ganh đua mà trì giới. Trong khi giữ giới không hề nghĩ mình giỏi hơn người hay có ý nghĩ khinh chê người phạm giới, mà chỉ nghĩ trì giới là bổn phận của mình không thực hành không được. Trì giới với tâm như thế mới đúng là trì giới rộng lớn (Ba La Mật).
Trong T ạp A H àm quyển 2 trang 609 và Tăng Nhất A Hàm, quyển 3, trang 551, đức Phật dạy người tu hành: “Chẳng thà ngủ nghỉ chứ không trong lúc tỉnh táo tư tưởng suy nghĩ điên đảo. Thà dùng sắt nóng nung vào mắt chứ không do nhìn sắc đẹp mà khởi tâm loạn tưởng. Thà dùng dùi nhọn đâm thủng lỗ tai chứ không vì nghe tiếng hay dở mà khởi tâm loạn tưởng. Thà dùng kìm nóng kẹp đứt lỗ mũi chứ không do ngửi mùi mà khởi yêu ghét. Thà dùng dao bén cắt lưỡi chứ không nói lời ác; thà dùng lá đồng nung đỏ cuốn quanh người, chứ không khởi nghĩ dâm dục với người nữ”.
Trang 550 đức Phật dạy: “Nếu người trì giới giảm dần, người ác nổi lên, khi ấy chánh pháp dần dần suy đồi, mạt pháp tăng lên, chúng sanh trong ấy sẽ rơi vào ba đường ác. Nếu người trì giới đầy đủ, người phạm giới giảm xuống, chánh pháp hưng thịnh, chúng sinh trong đó khi mạng chung đều sinh lên cõi Trời, cõi Người, hoặc về cõi tịnh độ”.
IV )- Vấn đề đối với người tu:
Giới luật của đức Phật đặt ra chỉ có mục đích làm lợi cho người giữ giới thực hành, người tu mau đạt qủa vị tốt đẹp. Giới luật của đức Phật không đặt kỷ luật trừng phạt người không tuân theo, có thi hành hay không là tuỳ tâm tự liệu lấy, và cũng tuỳ theo đó mà được hưởng ít nhiều phúc đức. Như trong thế gian người tu sống chừng mực, lương thiện có đạo đức gương mẫu được nhiều người khen ngợi, còn người sống buông thả, không kỉ cương,phép tắc,mất thuần phong mỹ tục gây rối, lừa bịp, sẽ bị pháp luật trừng trị, và mọi người chê bai.
Đối với người tu hành, trì giới đầy đủ, diện mạo thân tướng sẽ sáng như mặt trăng trong đêm tối giữa các vì sao. Còn đối với người không giữ giới, sẽ có rất nhiều tai hại như:
Thứ nhất, những người khác trông thấy người ấy phạm giới sẽ chê bai, xa lánh.
Thứ hai, nếu không ai thấy, ai nghe người ấy phạm giới, mà sự thực người ấy có phạm giới, người ấy sẽ tự hổ thẹn với chính mình., lương tâm dằn vặt cắn rứt không an,tạng thức ghi nhận tất cả những điều tội lỗi sẽ tạo thành nghiệp ác dắt dẫn họ đi vào tam đồ ác đạo sau này nếu không biết sám hối
Thứ ba, nếu người ấy không tự hổ thẹn, thì người ấy sẽ chẳng bao giờ tu tới nơi tới chốn được, rút cục người ấy chỉ quẩn quanh trong luân hồi sinh tử khổ não mà thôi.Người không biết hỗ thẹn sám hối chư thiên xa lánh, như đã bị bỏ ra khỏi biển Phật pháp
Thí dụ một người tu hành là nam nhân thường hay cùng một nữ nhân chuyện trò, gặp gỡ, đi lại cùng với nhau nhiều lần, đây có thể gọi là gần gũi. Người ngoài sẽ nghi ngờ, đặt dấu hỏi tại sao hai người này thường giao tiếp gặp nhau? Dù người đó có chân thật tới đâu đi nữa, nhưng đức Phật đã cấm tiếp xúc riêng lẻ giữa nam và nữ. Đức Phật cấm như thế để ngăn ngừa “lửa gần rơm lâu ngày sẽ bén”, cũng như lửa gần xăng sẽ dễ bùng cháy. Người tu hành không được tiếp xúc nhiều ngay với người khác phái,cho dù người đó lớn tuổi hơn mình để bớt sự này sự nọ, phải gìn giữ sáu căn là mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý, không cho phóng chạy, không cho dính mắc sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Có như vậy tâm mới được bình thản, dễ đi đến thanh tịnh, cho nên người có tâm dính mắc, tu chẳng ích gì.
Có người nói: “Tại sao có người tu hành làm các việc giao tiếp xấu xa, có người tu hành chỉ lo làm việc đời không lo tu, mà không thấy ai nói gì, người ấy vẫn cứ tiếp tục ngang nhiên như thế?” Câu trả lời là Phật giáo không chủ trương trừng phạt một ai, nếu biết người kia làm sai, phạm giới, thì chê bai, xa lánh, chứ không trừng phạt. Vì lẽ đó,cho nên người ấy vẫn tiếp tục đường lối của họ, thản nhiên như không và họ tiếp tục làm lẽ dĩ nhiên tự làm tự lãnh hậu qủa là sau khi chết sẽ sinh vào cõi ác. Tuy nhiên ngay trong hiện tại, người phạm giới vẫn có một số người tin theo, đây là vấn đề nan giải, vì những người tin theo này không thấy người ấy là phạm giới, không thấy người ấy làm sai phạm hạnh (khuôn phép), nên dù có người khác lưu ý cảnh báo họ vẫn không nghe, và vẫn tin theo ủng hộ người phạm giới ấy.
Chỉ có điều là nếu một người tu muốn gần người khác phái, muốn hoạt động việc đời, thì đức Phật cho phép cởi áo của người tu ra và mặc áo của người đời, để trở thành người bình thường trong xã hội. Nhưng khi người ấy cởi bỏ áo tu ra, làm người thường,thì không còn giá trị nữa, vì lời nói của người ấy ít có ảnh hưởng tới người khác. Bởi vậy, người ấy cố bám víu vào chiếc áo tu sĩ để lợi dụng chiếc áo tu hành để phục vụ cho bản thân họ. Người ấy sống như con mọt, nếu không mau mau sám hối sửa đổi kịp thời, tới lúc chết ắt sẽ rơi vào cõi ác, lúc ấy có hối cũng không còn kịp nữa! Vì vậy các vị cư sĩ tu hành chân thật hãy ráng giữ gìn giới luật nghiêm mật dù là 5 giới, 8 giới hay 10 giới cho đến 58 giới không luận nhiều ít ai thọ giới nào hãy trì giới đó đừng sanh tâm phạm giới mà góp phần làm cho chánh pháp sớm lụi tàn được vậy cũng là báo ân chư Phật còn các tu sĩ có tốt hay không là việc của họ mình đừng quan tâm vô ích.
V )- Vài trường hợp Phật dạy:
1)- Trong Tăng Nhất, quyển 1, trang 168, đức Phật bảo: “Nếu người nào có tâm dính mắc 21 kiết sử là: Giận (sân), làm hao tổn (nhuế hại), ngủ nghỉ (thuỳ miên), chơi bời (điều hý), nghi ngờ, dữ tợn (nộ), sợ hãi (kỵ), buồn (não), ganh ghét (tật), đắng cay (tắng), không thẹn với mình (vô tàm), không xấu hổ với người (vô quý), giả vờ (huyển), gian dối, chống đối (ngụy), tranh giành, kiêu căng, phóng túng (mạn), đố kỵ, tự cao tự đại (tăng thượng mạn), tham. Người này chắc chắn đọa 3 đường ác chẳng thể sinh cõi lành, ví như áo lông cũ nát lâu ngày dính đầy bụi, nếu muốn nhuộm màu xanh, vàng, chẳng thể thành được.
Ngược lại, nếu có người không có 21 kiết sử nêu trên dính mắc tâm, người đó ắt sinh lên Trời,về Tịnh độ, ví như áo trắng( Bạch y) mới sạch không bụi, muốn nhuộm màu nào cũng được.
2)- Cũng quyển 1, trang 206, đức Phật lấy thí dụ về các loài vật để ám chỉ so sánh với người tu, đức Phật nói:
1- Kià, tại sao gọi người tu ví như quạ như diều hâu?
Như có người ở chỗ yên lặng, làm các hạnh ác, lại che đậy các hành động xấu xa ấy. Giống như quạ bị đói khổ, ăn đồ dơ dáy, rồi chùi mỏ sợ chim khác thấy, nói rằng con quạ này đã ăn đồ dơ bẩn. Người ấy bị các người khác chỉ trích, xa lánh, sau tự hổ thẹn, hối lỗi, người này giống như quạ.
2- Kià sao gọi là người tu như lợn như heo?
Nếu có người ở chỗ vắng vẻ, làm các hạnh ác, không cần che đậy hành động xấu xa ấy. Người này ví như lợn heo, hằng ăn đồ dơ bẩn, nằm chỗ thối tha nhơ nhớp, lại còn lăng xăng với các lợn heo khác. Người làm các hạnh ác bị người khác chỉ trích không biết xấu hổ, chẳng hối lỗi, đối với người khác còn cống cáo khen mình là “ta đây”. Đây là người giống như lợn heo. Hãy nên lià xa người này, không nên giao du cho dù người đó là tu sĩ.
3- Kià sao gọi người tu giống như lừa như ngựa?
Như có người học đạo, lại có các căn bất tịnh, theo đuổi vạn mối, sinh các loạn tưởng, điều ác đủ cả, lại tự xưng: “Tôi cũng là người tu”. Người này ví như con lừa vào trong bầy trâu rồi tự xưng rằng: “Tôi cũng là trâu”, nhưng xem hai lỗ tai chẳng giống trâu, sừng cũng không giống, đuôi cũng chẳng giống, âm thanh cũng khác. Bấy giờ, bầy trâu hoặc lấy sừng húc, hoặc lấy chân đá, hoặc lấy miệng cắn. Người tu này cũng lại như thế, các căn bất tịnh, nếu mắt thấy sắc, theo khởi tưởng sắc, rong ruổi muôn mối, sinh các loạn tưởng, điều ác đến đủ, chẳng thể bảo vệ. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp (muôn vật), theo đó khởi thức tưởng rong ruổi muôn mối, sinh các loạn tưởng. Các điều ác sinh khởi đủ cả, chẳng thể giữ được ý căn thanh tịnh. Người có phạm hạnh (Chân tu) trông thấy chỉ trích: “Chao ôi! Người ngu này tựa như người tu ! Nếu là người tu, đúng ra không nên như thế”. Đây là người giống như lừa, hãy nên xa lià người này dù là tu sĩ.
4- Người tu kia tại sao giống như trâu?
Nếu có người học đạo, giữ gìn sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không cho rong ruổi theo sáu trần sắc thanh hương vị xúc pháp. Tâm ý không loạn động được thanh tịnh, liền được đến chỗ phạm hạnh (khuôn mẫu). Các bậc phạm hạnh thấy người kia, ai nấy đều kêu lên: “Mừng bạn đồng tu học Phật”. Ví như trâu vào trong bầy trâu, có tai, sừng, đuôi, âm thanh đều đúng là trâu. Các con trâu trong đàn thấy rồi, mỗi con đến liếm đầu mặt. Đây là người giống như trâu, nên làm người học như trâu,nên gần gũi thân cận người này mà không nên làm người giống như quạ, lợn, lừa.
VI )- Trì giới có ích lợi gì?
Phật tử thọ trì giới luật nghiêm chỉnh sẽ được an vui tự tại và được mọi người tôn trọng coi như một tấm gương sáng để soi. Hành giả trì giới trang nghiêm sẽ đưa đến tâm thanh tịnh, rất có lợi cho hành giả trong khi tu hành. Nếu kiếp này chưa thấy đạt đạo mà vẫn giử tròn giới hạnh tâm không thoái chuyển kiếp sau sẽ sinh ra hằng được xuất gia tu tịnh giới đắc quả Bồ Đề thoát vòng sinh tử luân hồi.
Trì giới nằm trong Lục Độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí huệ, có một công năng hơn hẳn bố thí một bậc. Người bố thí mà không trì giới, không thể tu tiến được, vì sao? Vì vừa tạo phúc do bố thí,lại vừa tạo tội do không trì giới, tức là vừa tạo phúc vừa tạo tội, thiện ác lẫn lộn đủ cả như thế, làm sao bước lên qủa Thánh được? Khi Hành giả trì giới dẫn đến được tâm thanh tịnh, sẽ phát khởi tâm từ bi hỉ xả, nên khi thấy người bố thí liền sinh tâm vui vẻ tán thán công đức ấy, như vậy là “tùy hỉ công đức bố thí”. Hành giả khi hành trì giới luật nghiêm trang, người khác thấy thế bắt chước, như thế là đã dùng “thân giáo” để bố thí pháp.
Vì vậy, trì giới rộng lớn (Ba La Mật) là một phương pháp thần diệu có thể bao gồm cả bố thí lẫn trì giới, chắc chắn sẽ đưa hành giả tới bờ giải thoát vậy.Tóm lại, chúng ta thấy rõ sự lợi ích của trì giới lớn lao như thế, giờ đây chỉ còn một điều là chúng ta phải quyết định dứt khoát phát tâm dũng mãnh trì giới rộng lớn (Ba La Mật). Khi phát tâm rồi, phải thực hành cho tới nơi tới chốn, vì học thì phải hành (học hành), khi đã học rồi phải tu, nếu học mà không tu, cũng như cái đẫy, cái bồ đựng chữ. Tu mà không học thì thiếu sót. Tu mà không hành (tu hành) mà còn phạm giới thì vô bổ, ích gì, thật hổ thẹn mang danh Phật tử bị người đời phỉ nhổ, muôn kiếp đọa lạc vì tội phá đạo, báng Phật.Vậy chúng ta hãy nổ lực tinh tấn thực hành lời Phật dạy nghiêm cẩn trì giới, thì được giới hạnh thanh tịnh trang nghiêm nhiên hậu được giải thoát rốt ráo mà còn nêu danh Phật tử sáng đạo đẹp đời ,góp phần giử gìn mạng mạch Phật pháp được trường tồn vĩnh cữu.
Giới Thiệu Ý Nghĩa Thập Thiện Giới
và Bồ Tát Giới Tại Gia
Thích Ðức Trí
I. Mục đích thọ giới:
Mục đích Đức Phật chế giới luật để giúp cho hàng đệ tử tại gia cũng như xuất gia ngăn ngừa các hành động xấu ác, làm mọi điều thiện để có được cuộc sống an vui lợi lạc. Nếu không hiểu ý nghĩa của giới luật, xem giới luật là sự ràng buộc hay vì lòng hiếu kỳ mà thọ giới thì đó là điều sai lầm. Bản chất của giới luật là đạo đức, kính trọng người giữ giới là kính trọng đạo đức. Giới là nếp sống thanh tịnh, là nền tảng của sự giác ngộ giải thoát. Do vậy, người học Phật đầu tiên phải học giới luật để cho mọi hành động trong cuộc sống của chúng ta đúng theo lời Phật dạy. Nếu đã thọ giới rồi, hành vi ngang ngược trái với đạo lý, vô tình làm mọi người xem thường bản thân mình, chẳng những không giúp ta thoát khổ đau trong hiện tại và tương lai mà còn mang nhiều lỗi lầm thật đáng tiếc. Bài viết này trình bày ý nghĩa và nội dung căn bản của Thập Thiện giới và Bồ Tát giới tại gia.
II. Giới luật theo tinh thần Phật Giáo:
Giới tiếng Phạn là Sila, có nghĩa là quán hạnh, được hiểu là xem xét và ngăn ngừa hành vi bất thiện của thân khẩu ý. Giới trong giới bổn gọi là Ba La Đề Mộc Xoa cũng có nghĩa là biệt giải thoát (Pratimoksa), tức giữ giới nào là được giải thoát giới đó. Có 2 loại giới: Thanh văn thất chúng biệt giải thoát giới và Đại thừa Bồ Tát giới.
Thanh văn thất chúng biệt giải thoát giới thiên về yếu tố tự lợi, lấy mục tiêu cầu thoát khổ và giải thoát cho mình mà giữ giới. Bảy chúng đệ tử của Phật đều thọ giới này: 1- Ưu Bà Tắc giới là giới của nam Phật tử, 2- Ưu Bà Di giới là giới của nữ Phật tử, 3- Sa Di Tăng giới, 4- Sa Di Ni giới, 5- Thức Xoa Ni giới tức là nữ Sa Di chuẩn bị bước lên Tỳ Kheo Ni giới, 6- Tỳ Kheo Tăng giới, 7- Tỳ Kheo Ni giới.
Đại thừa Bồ Tát giới là gồm Thất Chúng giới đã nói trên, như gồm Tam Quy giới, Ngũ giới, Bát giới, Thập Thiện giới, Tỳ Kheo giới và Tỳ Kheo Ni giới (theo ngũ bộ đại luật). Nội dung của Bồ Tát giới dựa vào các kinh “Anh Lạc kinh”, “Phạm Võng Bồ Tát kinh”, “Địa Trì kinh”, “Du Già Sư địa luận”, “Bồ Tát Giới kinh”. Các vị tổ sư đã trích thành văn mà kết thành Bồ Tát giới bổn. Cơ bản của Bồ Tát giới là gồm Tam Tụ Tịnh giới và Thập Thiện giới. Tam Tụ Tịnh giới là:
1. Nhiếp luật nghi giới: Bồ Tát giới là thâu nhiếp tất cả giới luật, tức bao gồm giới tại gia và xuất gia như: Ngũ giới, Bát Quan Trai giới, Thập Thiện giới và Cụ Túc giới.
2. Nhiếp thiện pháp giới: Bồ Tát giới lấy tất cả các điều lành làm giới.
Mục đích Đức Phật chế giới luật để giúp cho hàng đệ tử tại gia cũng như xuất gia ngăn ngừa các hành động xấu ác, làm mọi điều thiện để có được cuộc sống an vui lợi lạc. Nếu không hiểu ý nghĩa của giới luật, xem giới luật là sự ràng buộc hay vì lòng hiếu kỳ mà thọ giới thì đó là điều sai lầm. Bản chất của giới luật là đạo đức, kính trọng người giữ giới là kính trọng đạo đức. Giới là nếp sống thanh tịnh, là nền tảng của sự giác ngộ giải thoát. Do vậy, người học Phật đầu tiên phải học giới luật để cho mọi hành động trong cuộc sống của chúng ta đúng theo lời Phật dạy. Nếu đã thọ giới rồi, hành vi ngang ngược trái với đạo lý, vô tình làm mọi người xem thường bản thân mình, chẳng những không giúp ta thoát khổ đau trong hiện tại và tương lai mà còn mang nhiều lỗi lầm thật đáng tiếc. Bài viết này trình bày ý nghĩa và nội dung căn bản của Thập Thiện giới và Bồ Tát giới tại gia.
II. Giới luật theo tinh thần Phật Giáo:
Giới tiếng Phạn là Sila, có nghĩa là quán hạnh, được hiểu là xem xét và ngăn ngừa hành vi bất thiện của thân khẩu ý. Giới trong giới bổn gọi là Ba La Đề Mộc Xoa cũng có nghĩa là biệt giải thoát (Pratimoksa), tức giữ giới nào là được giải thoát giới đó. Có 2 loại giới: Thanh văn thất chúng biệt giải thoát giới và Đại thừa Bồ Tát giới.
Thanh văn thất chúng biệt giải thoát giới thiên về yếu tố tự lợi, lấy mục tiêu cầu thoát khổ và giải thoát cho mình mà giữ giới. Bảy chúng đệ tử của Phật đều thọ giới này: 1- Ưu Bà Tắc giới là giới của nam Phật tử, 2- Ưu Bà Di giới là giới của nữ Phật tử, 3- Sa Di Tăng giới, 4- Sa Di Ni giới, 5- Thức Xoa Ni giới tức là nữ Sa Di chuẩn bị bước lên Tỳ Kheo Ni giới, 6- Tỳ Kheo Tăng giới, 7- Tỳ Kheo Ni giới.
Đại thừa Bồ Tát giới là gồm Thất Chúng giới đã nói trên, như gồm Tam Quy giới, Ngũ giới, Bát giới, Thập Thiện giới, Tỳ Kheo giới và Tỳ Kheo Ni giới (theo ngũ bộ đại luật). Nội dung của Bồ Tát giới dựa vào các kinh “Anh Lạc kinh”, “Phạm Võng Bồ Tát kinh”, “Địa Trì kinh”, “Du Già Sư địa luận”, “Bồ Tát Giới kinh”. Các vị tổ sư đã trích thành văn mà kết thành Bồ Tát giới bổn. Cơ bản của Bồ Tát giới là gồm Tam Tụ Tịnh giới và Thập Thiện giới. Tam Tụ Tịnh giới là:
1. Nhiếp luật nghi giới: Bồ Tát giới là thâu nhiếp tất cả giới luật, tức bao gồm giới tại gia và xuất gia như: Ngũ giới, Bát Quan Trai giới, Thập Thiện giới và Cụ Túc giới.
2. Nhiếp thiện pháp giới: Bồ Tát giới lấy tất cả các điều lành làm giới.
3. Nhiêu ích hữu tình giới: Bồ Tát lấy mục đích làm lợi ích cho tất cả chúng sanh làm giới, không xả bỏ tất cả chúng sanh mà cứu độ chúng sanh làm mục đích tu tập và cầu giác ngộ.
III. Tu Thập Thiện giới:
Người học Phật, xuất gia hay tại gia nên hiểu rằng Thập Thiện giới là con đường tu học thực dụng trong các phần giới, đó cũng là ý nghĩa của chánh đạo. Ở kinh Tạp A Hàm quyển 29, Đức Phật có dạy: “Thế nào là chánh đạo? Đó là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không vọng ngữ, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời hung ác, không ỷ ngữ, không tham lam, không sân hận, không tà kiến”. Đó là ý nghĩa Thập Thiện giới cũng là chánh đạo, là con đường thành tựu Giới-Định-Tuệ. Vì muốn vĩnh viễn thoát khỏi khổ đau trong luân hồi sanh tử, thoát khỏi cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì nên tu tập Thập Thiện giới. Nội dung thực hành có 2 bước: Chỉ và Hành. Chỉ là dừng mọi hành động xấu ác có hại đến mình và chúng sanh. Hành là làm việc lành, giữ đúng giới luật, đem lại lợi ích cho mình và chúng sanh. Nội dung mười điều thiện:
1. Không sát sanh: không sát hại tất cả chúng sinh mà còn tu pháp phóng sanh.
2. Không trộm cắp: không trộm cắp tài vật của người khác mà còn làm việc bố thí giúp đỡ người nghèo khổ.
3. Không tà hạnh, tà dâm: không tà hạnh mà còn làm thanh tịnh phạm hạnh.
4. Không vọng ngữ: không nói dối với người mà còn nói lời chân thật.
5. Không nói lưỡi đôi chiều: không ở bên này nói xấu bên, ở bên kia nói xấu bên này, sinh mâu thuẫn trong lòng người khiến phát sanh xung đột và đấu tranh. Phải nói lời hòa hợp lợi ích.
6. Không nói lời hung ác: không nói lời thô bạo độc ác hay sỉ nhục người khác mà còn nói lời nhu nhuyến nhẹ nhàng- ái ngữ.
7. Không ỷ ngữ: không vì quyền lợi riêng mình mà nói hoa mỹ hoặc dùng lý lẽ ngụy biện bóp méo sự thực.
8. Không tham dục: không tham trước tình dục trần cảnh, nuôi lớn tâm thanh tịnh phạm hạnh.
9. Không sân hận: không phẫn nộ oán giận người mà luôn luôn hiền từ nhẫn nại.
10. Không tà kiến: không nên bảo thủ chấp trước mà luôn luôn tu tập chánh kiến. Đó là nội dung thực tiễn của tu Thập Thiện giới. Tầm quan trọng của Thập Thiện giới, người Phật tử sau khi quy y Tam Bảo nên thọ Thập Thiện giới, vì Thập Thiện giới là căn bản các thiện pháp căn bản Bồ Tát giới mà Chư Phật ba đời đều khen ngợi. Bồ Tát thị hiện độ đời lấy Thập Thiện giới để thực hiện sự giáo hóa chúng sanh. Đức Phật có đề cập rõ ý nghĩa này: “Này Xá Lợi Phất, ông nên nỗ lực hoằng dương đạo Pháp, khai mở Pháp môn Yết Ma thọ Thập Thiện giới để phá trừ mười điều bất thiện nghiệp” (Thọ Thập Thiện Giới Kinh). Trong lục độ Ba La Mật của Bồ Tát hạnh, yếu tố trì giới tức là thực hiện trọn vẹn ý nghĩa của Thập Thiện giới. Trong Luận Đại Trí Độ cuốn 46 có dạy: “Thập Thiện, hữu Phật vô Phật thường hữu”, nghĩa là Thập Thiện giới lúc có Phật tại thế hay lúc Phật không tại thế, Thập Thiện giới đều vĩnh viễn có.
IV. Bồ Tát giới tại gia:
Bồ Tát giới phạm vi rất rộng, tư tưởng vô cùng khoáng đạt, vượt thoát mọi chấp thủ và ước lệ đời thường, nó thuộc về thông giới. Ngoài thất chúng đệ tử ra còn có quỷ thần, Bát bộ và những chúng sanh nào hiểu được ý nghĩa của Pháp sư thuyết giới mà hành trì thì đắc giới. Trong Bồ Tát giới kinh dạy rằng: “Lục đạo chúng sanh thọ đắc giới, đản giải ngữ đắc giới bất thất”, nghĩa rằng chúng sanh trong lục đạo chỉ cần nghe hiểu lời Pháp sư truyền giới Bồ Tát giới mà trì giới thì được đắc giới. Do vậy, mọi người nam nữ, già trẻ và tất cả chúng sanh, trừ thành phần phạm bảy trọng tội (1- Giết Cha; 2- Giết Mẹ; 3- Làm thân Phật ra máu; 4- Giết A La hán; 5- Giết Hòa Thượng; 6- Phá Hòa Hiệp Tăng; 7- Giết Thánh Nhơn) đều có thể thọ Bồ Tát giới. Có hai trường hợp mất giới Bồ Tát: Tội thứ nhất là cố sát nhân không biết hổ thẹn sám hối; Tội thứ hai là xả Bồ đề tâm, ví dụ nói : “Tôi không tin việc làm Phật , không tin Tam Bảo và không phát Bồ Đề tâm nữa”. Ở trong “Phạm Võng Bồ Tát kinh” có thuyết gồm 10 giới trọng và 48 giới khinh, đối với hàng xuất gia, tại gia cần tuân thủ. Nhưng trên thực tế tùy theo hoàn cảnh, phong tục mà nội dung Bồ Tát giới tại gia có giảng lược một số giới điều để người thọ giới dễ thích ứng và vận dụng. Hiện nay, nội dung giới văn Bồ Tát tại gia gồm 6 giới trọng và 28 giới khinh (có giải thích rõ từng giới điều) mà được phổ biến trong các giới đàn truyền thọ, chúng tôi trích ra để Phật tử đọc dễ hiểu ý nghĩa từng giới :
Sáu giới trọng là:
1. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được sát sanh.
2. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được trộm cắp.
3. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được tà dâm.
4. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được nói dối.
5. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được nói lỗi của người tại gia và xuất gia.
6. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được bán rượu, nấu rượu.
Hai mươi tám giới khinh như sau:
1. Không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
2. Say đắm rượu chè, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
3. Cố ý gớm ghê không chăm sóc người bệnh khổ, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
4. Gặp người hành khất, không nhiều thì ít, phải tùy tâm mà bố thí, nếu để người hành khất về không, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
5. Nếu thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Trưởng lão, bậc Tôn Đức, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di... không đứng dậy nghinh tiếp hỏi thăm, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
6. Nếu thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di hủy phạm giới đã thọ, sinh tâm kiêu mạn, rồi nói rằng: Ta hơn người kia, người kia không bằng ta..., đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
7. Trong mỗi tháng có sáu ngày trai, nếu không đi thọ Bát quan trai giới, không cúng dường Tam Bảo, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
8. Trong khoảng tám mươi dặm, nơi có thuyết pháp mà không đến nghe, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
9. Thọ dụng vật của Thường trụ Tăng như ngọa cụ, giường, tòa ngồi, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
10. Nghi trong nước có vi trùng nhưng vẫn tùy tiện dùng, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
11. Không có bạn mà vẫn một mình đi vào nơi hiểm nạn, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
12. Một mình ngủ lại tại chùa Ni nếu là Ưu Bà Tắc, hoặc chùa Tăng nếu là Ưu Bà Di, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
13. Vì của cải, thân mạng mà đánh mắng người giúp việc, trẻ con hầu hạ hoặc người ngoài..., đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
14. Nếu đem thức ăn dư thừa dâng cúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni hoặc cung cấp cho người đồng giới, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
15. Nếu nuôi những loài ăn thịt như mèo, chồn..., đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
16. Có các loài vật như voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà... nếu không làm phép tịnh thí mà cho những người chưa thọ giới, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
17. Nếu không sắm cất các thứ y bát tích trượng ngọa cụ (để phòng khi cần cúng dường cho vị xuất gia thọ Bồ Tát giới), đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
18. Nếu vì nuôi thân mạng mà cần làm ruộng, nhưng không tìm nước trong (để tưới..) và đất ruộng cũ (để trồng trọt), đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
19. Nếu vì nuôi thân mạng mà mở phố buôn bán, cân đong hàng hóa; không được đã thỏa thuận giá cả rồi lại đem bán cho người trả giá cao hơn; cân đấu dùng để cân đong hàng hóa phải đúng mức quy định, nếu chưa đúng mức phải bảo sửa chữa lại, không làm như vậy, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
20. Nếu không phải chỗ, không phải thời mà hành dục, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
21. Nếu vì sinh sống mà buôn bán đem giá lên xuống, mua rẻ bán quá đắt, gian lận, trốn thuế, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
22. Trái phạm luật pháp nhà nước, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
23. Nếu có lúa mới, hoa trái, dưa rau các thứ đầu mùa, không hiến cúng Tam Bảo mà thọ dụng trước, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
24. Nếu chúng Tăng không chấp thuận mà vẫn tự mình thuyết pháp, tán thán quan điểm riêng của mình, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
25. Trên đường đi mà dành đi trước Tỳ Kheo, Sa Di, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
26. Khi dọn thức ăn ở giữa Tăng chúng nếu vì thiên vị thầy mình mà lựa chọn các thứ ngon lành dâng cho nhiều hơn các vị khác, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
27. Nếu nuôi tằm, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
28. Trên đường đi gặp người bệnh tật mà không dừng lại chăm sóc, làm các phương tiện, như dặn bảo những người khác chăm sóc, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
Thọ Bồ Tát giới là đi trên con đường cao thượng, nuôi lớn lòng đại bi, thương chúng sanh chìm nổi trong sanh tử tạo vô lượng ác nghiệp, thọ vô lượng tội báo mà xả thân cứu độ. Đây là chánh nhân tu học để thành Phật đạo. Phát bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo là công đức và phước báu to lớn nhất. Lấy đại bi tâm làm chủ, lấy bồ đề tâm dẫn đạo, thực hiện lý tưởng Đại thừa là điểm then chốt của người học Phật cần khắc cốt ghi tâm.
V. Lời kết:
Tam Tụ Tịnh giới và Thập Thiện giới là nội dung cơ bản của Bồ Tát giới. Nhiều kinh luận đề cập tầm quan trọng của Thập Thiện giới, xem đó là cái nhân lành tu phước báu nhân thiên. Tuy vậy, ngay cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát xem Thập Thiện giới là pháp tu học thực tiễn. Luận Đại Trí Độ có dạy: “Thập thiện đạo tắc nhiếp nhất thiết giới”. Tức là Thập Thiện giới thâu nhiếp tất cả các giới. Đối với Phật tử tại gia phát tâm thọ trì Thập Thiện và Bồ Tát giới đó là nhân duyên hiếm có trên cuộc đời. Tuy cuộc sống thế tục còn bị ràng buộc gia đình, công việc làm ăn và giao tế xã hội, v.v.. , cũng nên nhận thức cuộc đời là huyễn mộng, phát Bồ Đề tâm thọ giới pháp của Phật để cầu giải thoát khổ đau cho mình và mọi người. Từ đó gặt hái được giá trị thiết thực của Pháp vị, để thăng hoa đời sống con người. Vấn đề khi Phật tử đã thọ giới rồi, điều quan trọng là trì giới thanh tịnh mới đắc giới, tức là thành tựu Giới-Định-Tuệ và giải thoát và giải thoát tri kiến; đó là mục đích và ý nghĩa của việc thọ giới .
Người học Phật, xuất gia hay tại gia nên hiểu rằng Thập Thiện giới là con đường tu học thực dụng trong các phần giới, đó cũng là ý nghĩa của chánh đạo. Ở kinh Tạp A Hàm quyển 29, Đức Phật có dạy: “Thế nào là chánh đạo? Đó là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không vọng ngữ, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời hung ác, không ỷ ngữ, không tham lam, không sân hận, không tà kiến”. Đó là ý nghĩa Thập Thiện giới cũng là chánh đạo, là con đường thành tựu Giới-Định-Tuệ. Vì muốn vĩnh viễn thoát khỏi khổ đau trong luân hồi sanh tử, thoát khỏi cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì nên tu tập Thập Thiện giới. Nội dung thực hành có 2 bước: Chỉ và Hành. Chỉ là dừng mọi hành động xấu ác có hại đến mình và chúng sanh. Hành là làm việc lành, giữ đúng giới luật, đem lại lợi ích cho mình và chúng sanh. Nội dung mười điều thiện:
1. Không sát sanh: không sát hại tất cả chúng sinh mà còn tu pháp phóng sanh.
2. Không trộm cắp: không trộm cắp tài vật của người khác mà còn làm việc bố thí giúp đỡ người nghèo khổ.
3. Không tà hạnh, tà dâm: không tà hạnh mà còn làm thanh tịnh phạm hạnh.
4. Không vọng ngữ: không nói dối với người mà còn nói lời chân thật.
5. Không nói lưỡi đôi chiều: không ở bên này nói xấu bên, ở bên kia nói xấu bên này, sinh mâu thuẫn trong lòng người khiến phát sanh xung đột và đấu tranh. Phải nói lời hòa hợp lợi ích.
6. Không nói lời hung ác: không nói lời thô bạo độc ác hay sỉ nhục người khác mà còn nói lời nhu nhuyến nhẹ nhàng- ái ngữ.
7. Không ỷ ngữ: không vì quyền lợi riêng mình mà nói hoa mỹ hoặc dùng lý lẽ ngụy biện bóp méo sự thực.
8. Không tham dục: không tham trước tình dục trần cảnh, nuôi lớn tâm thanh tịnh phạm hạnh.
9. Không sân hận: không phẫn nộ oán giận người mà luôn luôn hiền từ nhẫn nại.
10. Không tà kiến: không nên bảo thủ chấp trước mà luôn luôn tu tập chánh kiến. Đó là nội dung thực tiễn của tu Thập Thiện giới. Tầm quan trọng của Thập Thiện giới, người Phật tử sau khi quy y Tam Bảo nên thọ Thập Thiện giới, vì Thập Thiện giới là căn bản các thiện pháp căn bản Bồ Tát giới mà Chư Phật ba đời đều khen ngợi. Bồ Tát thị hiện độ đời lấy Thập Thiện giới để thực hiện sự giáo hóa chúng sanh. Đức Phật có đề cập rõ ý nghĩa này: “Này Xá Lợi Phất, ông nên nỗ lực hoằng dương đạo Pháp, khai mở Pháp môn Yết Ma thọ Thập Thiện giới để phá trừ mười điều bất thiện nghiệp” (Thọ Thập Thiện Giới Kinh). Trong lục độ Ba La Mật của Bồ Tát hạnh, yếu tố trì giới tức là thực hiện trọn vẹn ý nghĩa của Thập Thiện giới. Trong Luận Đại Trí Độ cuốn 46 có dạy: “Thập Thiện, hữu Phật vô Phật thường hữu”, nghĩa là Thập Thiện giới lúc có Phật tại thế hay lúc Phật không tại thế, Thập Thiện giới đều vĩnh viễn có.
IV. Bồ Tát giới tại gia:
Bồ Tát giới phạm vi rất rộng, tư tưởng vô cùng khoáng đạt, vượt thoát mọi chấp thủ và ước lệ đời thường, nó thuộc về thông giới. Ngoài thất chúng đệ tử ra còn có quỷ thần, Bát bộ và những chúng sanh nào hiểu được ý nghĩa của Pháp sư thuyết giới mà hành trì thì đắc giới. Trong Bồ Tát giới kinh dạy rằng: “Lục đạo chúng sanh thọ đắc giới, đản giải ngữ đắc giới bất thất”, nghĩa rằng chúng sanh trong lục đạo chỉ cần nghe hiểu lời Pháp sư truyền giới Bồ Tát giới mà trì giới thì được đắc giới. Do vậy, mọi người nam nữ, già trẻ và tất cả chúng sanh, trừ thành phần phạm bảy trọng tội (1- Giết Cha; 2- Giết Mẹ; 3- Làm thân Phật ra máu; 4- Giết A La hán; 5- Giết Hòa Thượng; 6- Phá Hòa Hiệp Tăng; 7- Giết Thánh Nhơn) đều có thể thọ Bồ Tát giới. Có hai trường hợp mất giới Bồ Tát: Tội thứ nhất là cố sát nhân không biết hổ thẹn sám hối; Tội thứ hai là xả Bồ đề tâm, ví dụ nói : “Tôi không tin việc làm Phật , không tin Tam Bảo và không phát Bồ Đề tâm nữa”. Ở trong “Phạm Võng Bồ Tát kinh” có thuyết gồm 10 giới trọng và 48 giới khinh, đối với hàng xuất gia, tại gia cần tuân thủ. Nhưng trên thực tế tùy theo hoàn cảnh, phong tục mà nội dung Bồ Tát giới tại gia có giảng lược một số giới điều để người thọ giới dễ thích ứng và vận dụng. Hiện nay, nội dung giới văn Bồ Tát tại gia gồm 6 giới trọng và 28 giới khinh (có giải thích rõ từng giới điều) mà được phổ biến trong các giới đàn truyền thọ, chúng tôi trích ra để Phật tử đọc dễ hiểu ý nghĩa từng giới :
Sáu giới trọng là:
1. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được sát sanh.
2. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được trộm cắp.
3. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được tà dâm.
4. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được nói dối.
5. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được nói lỗi của người tại gia và xuất gia.
6. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được bán rượu, nấu rượu.
Hai mươi tám giới khinh như sau:
1. Không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
2. Say đắm rượu chè, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
3. Cố ý gớm ghê không chăm sóc người bệnh khổ, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
4. Gặp người hành khất, không nhiều thì ít, phải tùy tâm mà bố thí, nếu để người hành khất về không, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
5. Nếu thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Trưởng lão, bậc Tôn Đức, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di... không đứng dậy nghinh tiếp hỏi thăm, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
6. Nếu thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di hủy phạm giới đã thọ, sinh tâm kiêu mạn, rồi nói rằng: Ta hơn người kia, người kia không bằng ta..., đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
7. Trong mỗi tháng có sáu ngày trai, nếu không đi thọ Bát quan trai giới, không cúng dường Tam Bảo, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
8. Trong khoảng tám mươi dặm, nơi có thuyết pháp mà không đến nghe, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
9. Thọ dụng vật của Thường trụ Tăng như ngọa cụ, giường, tòa ngồi, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
10. Nghi trong nước có vi trùng nhưng vẫn tùy tiện dùng, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
11. Không có bạn mà vẫn một mình đi vào nơi hiểm nạn, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
12. Một mình ngủ lại tại chùa Ni nếu là Ưu Bà Tắc, hoặc chùa Tăng nếu là Ưu Bà Di, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
13. Vì của cải, thân mạng mà đánh mắng người giúp việc, trẻ con hầu hạ hoặc người ngoài..., đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
14. Nếu đem thức ăn dư thừa dâng cúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni hoặc cung cấp cho người đồng giới, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
15. Nếu nuôi những loài ăn thịt như mèo, chồn..., đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
16. Có các loài vật như voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà... nếu không làm phép tịnh thí mà cho những người chưa thọ giới, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
17. Nếu không sắm cất các thứ y bát tích trượng ngọa cụ (để phòng khi cần cúng dường cho vị xuất gia thọ Bồ Tát giới), đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
18. Nếu vì nuôi thân mạng mà cần làm ruộng, nhưng không tìm nước trong (để tưới..) và đất ruộng cũ (để trồng trọt), đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
19. Nếu vì nuôi thân mạng mà mở phố buôn bán, cân đong hàng hóa; không được đã thỏa thuận giá cả rồi lại đem bán cho người trả giá cao hơn; cân đấu dùng để cân đong hàng hóa phải đúng mức quy định, nếu chưa đúng mức phải bảo sửa chữa lại, không làm như vậy, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
20. Nếu không phải chỗ, không phải thời mà hành dục, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
21. Nếu vì sinh sống mà buôn bán đem giá lên xuống, mua rẻ bán quá đắt, gian lận, trốn thuế, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
22. Trái phạm luật pháp nhà nước, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
23. Nếu có lúa mới, hoa trái, dưa rau các thứ đầu mùa, không hiến cúng Tam Bảo mà thọ dụng trước, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
24. Nếu chúng Tăng không chấp thuận mà vẫn tự mình thuyết pháp, tán thán quan điểm riêng của mình, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
25. Trên đường đi mà dành đi trước Tỳ Kheo, Sa Di, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
26. Khi dọn thức ăn ở giữa Tăng chúng nếu vì thiên vị thầy mình mà lựa chọn các thứ ngon lành dâng cho nhiều hơn các vị khác, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
27. Nếu nuôi tằm, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
28. Trên đường đi gặp người bệnh tật mà không dừng lại chăm sóc, làm các phương tiện, như dặn bảo những người khác chăm sóc, đó là Bồ Tát tại gia phạm tội thất ý.
Thọ Bồ Tát giới là đi trên con đường cao thượng, nuôi lớn lòng đại bi, thương chúng sanh chìm nổi trong sanh tử tạo vô lượng ác nghiệp, thọ vô lượng tội báo mà xả thân cứu độ. Đây là chánh nhân tu học để thành Phật đạo. Phát bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo là công đức và phước báu to lớn nhất. Lấy đại bi tâm làm chủ, lấy bồ đề tâm dẫn đạo, thực hiện lý tưởng Đại thừa là điểm then chốt của người học Phật cần khắc cốt ghi tâm.
V. Lời kết:
Tam Tụ Tịnh giới và Thập Thiện giới là nội dung cơ bản của Bồ Tát giới. Nhiều kinh luận đề cập tầm quan trọng của Thập Thiện giới, xem đó là cái nhân lành tu phước báu nhân thiên. Tuy vậy, ngay cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát xem Thập Thiện giới là pháp tu học thực tiễn. Luận Đại Trí Độ có dạy: “Thập thiện đạo tắc nhiếp nhất thiết giới”. Tức là Thập Thiện giới thâu nhiếp tất cả các giới. Đối với Phật tử tại gia phát tâm thọ trì Thập Thiện và Bồ Tát giới đó là nhân duyên hiếm có trên cuộc đời. Tuy cuộc sống thế tục còn bị ràng buộc gia đình, công việc làm ăn và giao tế xã hội, v.v.. , cũng nên nhận thức cuộc đời là huyễn mộng, phát Bồ Đề tâm thọ giới pháp của Phật để cầu giải thoát khổ đau cho mình và mọi người. Từ đó gặt hái được giá trị thiết thực của Pháp vị, để thăng hoa đời sống con người. Vấn đề khi Phật tử đã thọ giới rồi, điều quan trọng là trì giới thanh tịnh mới đắc giới, tức là thành tựu Giới-Định-Tuệ và giải thoát và giải thoát tri kiến; đó là mục đích và ý nghĩa của việc thọ giới .
Hướng dẫn tác bạch:
“Ngưỡng bạch thập phương Chư Phật và Bồ Tát, con tên là… pháp danh là…
Nay, chúng con ở nơi thập phương của chư Phật và Bồ Tát, thề nguyện thọ trì tất cả học xứ của Bồ Tát, thệ nguyện thọ tất cả tịnh giới của Bồ Tát. Nghĩa là thọ đủ Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới.Tất cả tịnh giới và học xứ như vậy, hết thảy Bồ Tát trong quá khứ đã viên mãn, hết thảy các Bồ Tát vị lai sẽ viên mãn, hết thảy các vị Bồ tát hiện tại trong mười phương đã và đang viên mãn.Tất cả tịnh giới và học xứ ấy, hết thảy Bồ tát quá khứ đã học, hết thảy Bồ Tát vị lai sẽ học, hết thảy Bồ Tát hiện tại đã và đang học.Con nay cũng học như vậy.
Nay, chúng con ở nơi thập phương của chư Phật và Bồ Tát, thề nguyện thọ trì tất cả học xứ của Bồ Tát, thệ nguyện thọ tất cả tịnh giới của Bồ Tát. Nghĩa là thọ đủ Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới.Tất cả tịnh giới và học xứ như vậy, hết thảy Bồ Tát trong quá khứ đã viên mãn, hết thảy các Bồ Tát vị lai sẽ viên mãn, hết thảy các vị Bồ tát hiện tại trong mười phương đã và đang viên mãn.Tất cả tịnh giới và học xứ ấy, hết thảy Bồ tát quá khứ đã học, hết thảy Bồ Tát vị lai sẽ học, hết thảy Bồ Tát hiện tại đã và đang học.Con nay cũng học như vậy.
4. Hướng dẫn phát Bồ Đề Tâm:
Nếu giới tử muốn thọ Bồ Tát tịnh giới, thì trước hết phải phát khởi Bồ Đề Tâm.
Tâm Bồ Đề là tâm đại đạo, tâm ấy là tâm ở trên thì cầu mong đạo lý làm Phật, dưới thì phát khởi hạnh nguyện nhiếp hóa chúng sanh.
Cầu đạo lý làm Phật, nghĩa là Bồ tát phát khởi tâm không hạn lượng, thừa sự cúng dường ở nơi một Đức Phật, hai Đức Phật mà cho đến trăm ngàn vạn Đức Phật, ấy là thừa sự cúng dường hết thảy chư Phật trong mười phương vô tận pháp giới, hư không giới, để mong cầu tất cả trí tuệ, thành tựu vô lượng trăm ngàn pháp môn. Do đó mà phát Bồ Đề Tâm.
Hạnh nguyện nhiếp hoá chúng sanh, nghĩa là Bồ tát phát tâm nhiếp hóa hết thảy chúng sanh, không có hạn lượng trong một thế giới, hai thế giới mà cho đến mười phương vô tận pháp giới, hư không giới. Do đó mà phát Bồ Đề Tâm.
Phát Bồ Đề Tâm đúng như vậy, hạnh nguyện đã thiết lập đúng như vậy, mới xứng danh là Bồ Tát.
- Pháp sư hỏi:
Nay, quý vị có khả năng phát khởi tâm Bồ Đề như vậy không?
- Giới tử đáp: Mô Phật Có. (hỏi và đáp ba lần như vậy).
- Pháp sư khai thị tiếp:
Hỡi các giới tử! Có bao nhiêu công đức thiện căn của hàng Bồ Tát lúc mới phát tâm Bồ Đề, thời không thể hiểu hết ngằn mé. Vì sao? Vì hàng Bồ Tát không để dòng dõi của Như Lai bị đoạn mất mà phát tâm và do phát tâm mà thường được sự thương tưởng của tất cả chư Phật trong ba đời, và chính là cùng dự vào thể tính bình đẳng của cả hết thảy Chư Phật ba đời.
Cho nên, khi mới phát tâm, tâm ấy liền trở thành tâm của Bậc Chánh giác, và chính lúc đó hết thảy Như Lai đồng khen ngợi. Ngay lúc đó là trừ diệt được nỗi khổ của ác đạo; ngay lúc đó có khả năng làm các cõi Phật thanh tịnh và duy trì được dòng dõi của Phật ở trong một thế giới, rồi sẽ thị hiện thành Phật.
- Pháp sư hỏi:
Quý vị có phải là người cầu làm Bồ Tát không?
- Giới tử đáp:
Mô phật phải.
Tâm Bồ Đề đã phát khởi chưa?
Dạ đã phát khởi. (Hỏi và đáp như vậy ba lần).
Pháp sư khai thị tiếp:
Hỡi quý vị giới tử hãy lắng nghe!
Nay, quý vị muốn thọ trì tất cả tịnh giới và học xứ Bồ Tát từ nơi Phật trao truyền lại, thì đó là: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, và Nhiêu ích hữu tình giới.
Tất cả tịnh giới và học xứ như vậy, hết thảy Bồ Tát vị lai sẽ viên mãn, Bồ Tát quá khứ đã viên mãn, hết thảy Bồ Tát hiện tại đã và đang viên mãn.
Đối với hết thảy tịnh giới và các học xứ, hết thảy Bồ Tát đã học, sẽ học và đang học.
- Pháp sư hỏi:Quý vị có khả năng thọ trì không?
Đáp: Có khả năng thọ trì. (Hỏi và đáp như vậy ba lần).5. Trao y:
Nếu là Sa di thọ Bồ Tát giới, thì pháp sư trao y cho họ đắp trước khi tiếp nhận giới.
- Pháp sư khai thị:
Hỡi các giới tử!
Y nầy là áo giáp nhẫn nhục, hết thảy Bồ Tát đều mặc để tu tập Lục độ Vạn hạnh, cứu độ quần sanh, viên thành chủng trí.Tôi nay thay mặt tam bảo trao cho quý vị, quý vị hãy đội lên đỉnh đầu để thọ trì.6. Trao bốn niềm tin bất hoại:
Hỡi các giới tử!
Quý vị phải thọ trì bốn niềm tin bất hoại, phải một lòng tín thọ và hãy nói theo tôi:
Con nguyện từ hôm nay cho đến tận biên cương vị lai, đem hết thân mạng về nương tựa Phật, nương tựa Pháp, nương tựa Tăng và nương tựa Chánh pháp giới. (nói ba lần như vậy).7. Hướng dẫn sám hối:
- Pháp sư khai thị:
Các giới tử đã nhận lãnh bốn niềm tin bất hoại rồi, bây giờ tiếp đến là phải sám hối tội nghiệp trong ba đời.
Nghĩa là từ vô thỉ cho đến ngày nay, do không biết Tam Bảo, không tin có quả báo Thiện ác, mà tạo ra tội lỗi vô gián và mười nghiệp ác.Hoặc tạo ra tội do phá tháp, phá chùa, thiêu đốt kinh tượng, hủy báng Tam Bảo, tạo ra vô lượng, vô biên tội nhất xiển đề như vậy, ngày nay chúng con đối trước mười phương Tam Bảo, chí thành phát lộ sám hối cầu mong Tam Bảo thương xót nguyện đều trừ diệt.
Nếu quý vị không có khả năng bộc bạch, tôi sẽ vì quý vị mà hướng dẫn, quý vị hãy nói theo tôi.
- Đệ tử chúng con hoặc thân, khẩu, ý gồm mười tội ác nghiệp, kể từ quá khứ cho đến suốt tận biên cương vị lai, nguyện vĩnh viễn không còn dấy khởi.
- Đệ tử chúng con hoặc thân, khẩu, ý gồm mười tội ác nghiệp, kể từ hiện tại cho đến suốt tận biên cương vị lai, nguyện vĩnh viễn không còn dấy khởi.
- Đệ tử chúng con hoặc thân, khẩu, ý gồm mười tội ác nghiệp, từ thuở vị lai, cho đến ngằn mé của biên cương này, nguyện vĩnh viễn không còn dấy khởi.
Quý vị hãy chú tâm sám hối và đọc lên:
“Đệ tử sở tạo các ác nghiệp,
đều do vô thỉ tham sân si.
Từ thân miệng ý phát sinh ra,
Hết thảy chúng con xin sám hối”.
Nam Mô Hư Không Tạng Bồ Tát ma ha tát.
(đọc ba lần).8. Hướng dẫn phát khởi đại nguyện:
- Pháp sư huấn thị:
Hỡi các giới tử!
Quý vị đã sám hối như vậy xong, hẳn nhiên ba nghiệp đã thanh tịnh, như bình sạch lưu ly, soi chiếu từ trong đến ngoài. Tiếp đến quý vị hãy quán chiếu pháp Tứ diệu đế mà phát khởi bốn Hoằng thệ nguyện.
Quán chiếu Khổ đế, nghĩa là ở nơi vô lượng quả báo thống khổ của hết thảy chúng sanh trong Lục đạo, Bồ Tát lấy đó, làm đối tượng quán chiếu mà nguyện nhiếp độ hết thảy chúng sanh, thoát khỏi những quả báo thống khổ ấy.
Do đó, Bồ tát phát nguyện rằng: “Chúng sanh không số lượng thề nguyện đều độ khắp”.
Quán chiếu Tập đế, nghĩa là tất cả chúng sanh đã huân tập và tích lũy vô lượng tác nhân phiền não, vọng tưởng kể từ vô thỉ cho đến ngày nay, và vì do tác nhân này mà chúng sanh bị chiêu cảm vô lượng quả báo thống khổ, luân chuyển trong ba cõi không có kỳ hạn.
Bồ Tát lấy Tập đế, làm đối tượng quán chiếu mà nguyện nhiếp độ chúng sanh, khiến họ đoạn trừ mọi chướng nghiệp phiền não.
Do đó, Bồ Tát phát nguyện rằng: “Phiền não không cùng tận thệ nguyện đều dứt sạch”.
Quán chiếu Đạo đế, nghĩa là vì hết thảy chúng sanh do không biết Chánh nhân để tu tập, nhằm vượt khỏi lưu tục, nên bị luân chuyển trong lục đạo, tự mình không thể an lạc.
Do đó, Bồ Tát thiết lập vô lượng pháp môn, giáo hoá chúng sanh khiến họ tu học.
Bởi vậy, Bồ Tát phát nguyện rằng: “Pháp môn không kể xiết, thề nguyện đều tu học”.
Quán chiếu Diệt đế, chính là quán chiếu về Niết bàn là trạng thái vắng diệt mọi khát ái, chấp ngã. Nghĩa là không có đạo nào tối thượng bằng Đạo Tịch Tịnh Niết bàn của Như Lai.
Do đó, Bồ Tát phát nguyện rằng: “Phật đạo không gì hơn, thề nguyện đều viên thành”.
Bốn hoằng thệ nguyện như vậy là bao gồm hết thảy các nguyện. Nếu không căn cứ vào Bốn đế lý, mà phát khởi hạnh nguyện, thì nguyện và hạnh không thích ứng đạo lý.
Hỡi các giới tử!
Nếu có thể biết năm uẩn đều là không, khổ hay lạc đều là vô ngã, bản chất của chính nó là như như, thì hiển nhiên không có Khổ đế để xả, bản tính của hết thảy trần lao phiền não đều thanh tịnh, thì không có Tập đế để đoạn trừ. Nếu tà kiến, biên kiến đều là Chánh đạo, Trung đạo, thì không có Đạo đế để tu. Nếu sanh tử là Niết bàn thì không có Diệt đế để có thể chứng đạt.
Công đức của sự phát tâm, lập hạnh thấu tình, đạt lý như vậy, chỉ có Đức Phật mới là bậc thấu triệt.
Còn ví như chưa minh triệt, thì dù có chí tâm xuất gia mà vẫn còn rơi vào thiên chấp pháp nhỏ, không tương ứng với Bồ đề tâm, thì trọn không thể chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ đề.
Do đó, hỡi các giới tử! Các người phải phát tâm, thực hành Bốn hoằng thệ nguyện.
Quý vị hãy tha thiết chân thật nói lên!
Nếu giới tử muốn thọ Bồ Tát tịnh giới, thì trước hết phải phát khởi Bồ Đề Tâm.
Tâm Bồ Đề là tâm đại đạo, tâm ấy là tâm ở trên thì cầu mong đạo lý làm Phật, dưới thì phát khởi hạnh nguyện nhiếp hóa chúng sanh.
Cầu đạo lý làm Phật, nghĩa là Bồ tát phát khởi tâm không hạn lượng, thừa sự cúng dường ở nơi một Đức Phật, hai Đức Phật mà cho đến trăm ngàn vạn Đức Phật, ấy là thừa sự cúng dường hết thảy chư Phật trong mười phương vô tận pháp giới, hư không giới, để mong cầu tất cả trí tuệ, thành tựu vô lượng trăm ngàn pháp môn. Do đó mà phát Bồ Đề Tâm.
Hạnh nguyện nhiếp hoá chúng sanh, nghĩa là Bồ tát phát tâm nhiếp hóa hết thảy chúng sanh, không có hạn lượng trong một thế giới, hai thế giới mà cho đến mười phương vô tận pháp giới, hư không giới. Do đó mà phát Bồ Đề Tâm.
Phát Bồ Đề Tâm đúng như vậy, hạnh nguyện đã thiết lập đúng như vậy, mới xứng danh là Bồ Tát.
- Pháp sư hỏi:
Nay, quý vị có khả năng phát khởi tâm Bồ Đề như vậy không?
- Giới tử đáp: Mô Phật Có. (hỏi và đáp ba lần như vậy).
- Pháp sư khai thị tiếp:
Hỡi các giới tử! Có bao nhiêu công đức thiện căn của hàng Bồ Tát lúc mới phát tâm Bồ Đề, thời không thể hiểu hết ngằn mé. Vì sao? Vì hàng Bồ Tát không để dòng dõi của Như Lai bị đoạn mất mà phát tâm và do phát tâm mà thường được sự thương tưởng của tất cả chư Phật trong ba đời, và chính là cùng dự vào thể tính bình đẳng của cả hết thảy Chư Phật ba đời.
Cho nên, khi mới phát tâm, tâm ấy liền trở thành tâm của Bậc Chánh giác, và chính lúc đó hết thảy Như Lai đồng khen ngợi. Ngay lúc đó là trừ diệt được nỗi khổ của ác đạo; ngay lúc đó có khả năng làm các cõi Phật thanh tịnh và duy trì được dòng dõi của Phật ở trong một thế giới, rồi sẽ thị hiện thành Phật.
- Pháp sư hỏi:
Quý vị có phải là người cầu làm Bồ Tát không?
- Giới tử đáp:
Mô phật phải.
Tâm Bồ Đề đã phát khởi chưa?
Dạ đã phát khởi. (Hỏi và đáp như vậy ba lần).
Pháp sư khai thị tiếp:
Hỡi quý vị giới tử hãy lắng nghe!
Nay, quý vị muốn thọ trì tất cả tịnh giới và học xứ Bồ Tát từ nơi Phật trao truyền lại, thì đó là: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, và Nhiêu ích hữu tình giới.
Tất cả tịnh giới và học xứ như vậy, hết thảy Bồ Tát vị lai sẽ viên mãn, Bồ Tát quá khứ đã viên mãn, hết thảy Bồ Tát hiện tại đã và đang viên mãn.
Đối với hết thảy tịnh giới và các học xứ, hết thảy Bồ Tát đã học, sẽ học và đang học.
- Pháp sư hỏi:Quý vị có khả năng thọ trì không?
Đáp: Có khả năng thọ trì. (Hỏi và đáp như vậy ba lần).5. Trao y:
Nếu là Sa di thọ Bồ Tát giới, thì pháp sư trao y cho họ đắp trước khi tiếp nhận giới.
- Pháp sư khai thị:
Hỡi các giới tử!
Y nầy là áo giáp nhẫn nhục, hết thảy Bồ Tát đều mặc để tu tập Lục độ Vạn hạnh, cứu độ quần sanh, viên thành chủng trí.Tôi nay thay mặt tam bảo trao cho quý vị, quý vị hãy đội lên đỉnh đầu để thọ trì.6. Trao bốn niềm tin bất hoại:
Hỡi các giới tử!
Quý vị phải thọ trì bốn niềm tin bất hoại, phải một lòng tín thọ và hãy nói theo tôi:
Con nguyện từ hôm nay cho đến tận biên cương vị lai, đem hết thân mạng về nương tựa Phật, nương tựa Pháp, nương tựa Tăng và nương tựa Chánh pháp giới. (nói ba lần như vậy).7. Hướng dẫn sám hối:
- Pháp sư khai thị:
Các giới tử đã nhận lãnh bốn niềm tin bất hoại rồi, bây giờ tiếp đến là phải sám hối tội nghiệp trong ba đời.
Nghĩa là từ vô thỉ cho đến ngày nay, do không biết Tam Bảo, không tin có quả báo Thiện ác, mà tạo ra tội lỗi vô gián và mười nghiệp ác.Hoặc tạo ra tội do phá tháp, phá chùa, thiêu đốt kinh tượng, hủy báng Tam Bảo, tạo ra vô lượng, vô biên tội nhất xiển đề như vậy, ngày nay chúng con đối trước mười phương Tam Bảo, chí thành phát lộ sám hối cầu mong Tam Bảo thương xót nguyện đều trừ diệt.
Nếu quý vị không có khả năng bộc bạch, tôi sẽ vì quý vị mà hướng dẫn, quý vị hãy nói theo tôi.
- Đệ tử chúng con hoặc thân, khẩu, ý gồm mười tội ác nghiệp, kể từ quá khứ cho đến suốt tận biên cương vị lai, nguyện vĩnh viễn không còn dấy khởi.
- Đệ tử chúng con hoặc thân, khẩu, ý gồm mười tội ác nghiệp, kể từ hiện tại cho đến suốt tận biên cương vị lai, nguyện vĩnh viễn không còn dấy khởi.
- Đệ tử chúng con hoặc thân, khẩu, ý gồm mười tội ác nghiệp, từ thuở vị lai, cho đến ngằn mé của biên cương này, nguyện vĩnh viễn không còn dấy khởi.
Quý vị hãy chú tâm sám hối và đọc lên:
“Đệ tử sở tạo các ác nghiệp,
đều do vô thỉ tham sân si.
Từ thân miệng ý phát sinh ra,
Hết thảy chúng con xin sám hối”.
Nam Mô Hư Không Tạng Bồ Tát ma ha tát.
(đọc ba lần).8. Hướng dẫn phát khởi đại nguyện:
- Pháp sư huấn thị:
Hỡi các giới tử!
Quý vị đã sám hối như vậy xong, hẳn nhiên ba nghiệp đã thanh tịnh, như bình sạch lưu ly, soi chiếu từ trong đến ngoài. Tiếp đến quý vị hãy quán chiếu pháp Tứ diệu đế mà phát khởi bốn Hoằng thệ nguyện.
Quán chiếu Khổ đế, nghĩa là ở nơi vô lượng quả báo thống khổ của hết thảy chúng sanh trong Lục đạo, Bồ Tát lấy đó, làm đối tượng quán chiếu mà nguyện nhiếp độ hết thảy chúng sanh, thoát khỏi những quả báo thống khổ ấy.
Do đó, Bồ tát phát nguyện rằng: “Chúng sanh không số lượng thề nguyện đều độ khắp”.
Quán chiếu Tập đế, nghĩa là tất cả chúng sanh đã huân tập và tích lũy vô lượng tác nhân phiền não, vọng tưởng kể từ vô thỉ cho đến ngày nay, và vì do tác nhân này mà chúng sanh bị chiêu cảm vô lượng quả báo thống khổ, luân chuyển trong ba cõi không có kỳ hạn.
Bồ Tát lấy Tập đế, làm đối tượng quán chiếu mà nguyện nhiếp độ chúng sanh, khiến họ đoạn trừ mọi chướng nghiệp phiền não.
Do đó, Bồ Tát phát nguyện rằng: “Phiền não không cùng tận thệ nguyện đều dứt sạch”.
Quán chiếu Đạo đế, nghĩa là vì hết thảy chúng sanh do không biết Chánh nhân để tu tập, nhằm vượt khỏi lưu tục, nên bị luân chuyển trong lục đạo, tự mình không thể an lạc.
Do đó, Bồ Tát thiết lập vô lượng pháp môn, giáo hoá chúng sanh khiến họ tu học.
Bởi vậy, Bồ Tát phát nguyện rằng: “Pháp môn không kể xiết, thề nguyện đều tu học”.
Quán chiếu Diệt đế, chính là quán chiếu về Niết bàn là trạng thái vắng diệt mọi khát ái, chấp ngã. Nghĩa là không có đạo nào tối thượng bằng Đạo Tịch Tịnh Niết bàn của Như Lai.
Do đó, Bồ Tát phát nguyện rằng: “Phật đạo không gì hơn, thề nguyện đều viên thành”.
Bốn hoằng thệ nguyện như vậy là bao gồm hết thảy các nguyện. Nếu không căn cứ vào Bốn đế lý, mà phát khởi hạnh nguyện, thì nguyện và hạnh không thích ứng đạo lý.
Hỡi các giới tử!
Nếu có thể biết năm uẩn đều là không, khổ hay lạc đều là vô ngã, bản chất của chính nó là như như, thì hiển nhiên không có Khổ đế để xả, bản tính của hết thảy trần lao phiền não đều thanh tịnh, thì không có Tập đế để đoạn trừ. Nếu tà kiến, biên kiến đều là Chánh đạo, Trung đạo, thì không có Đạo đế để tu. Nếu sanh tử là Niết bàn thì không có Diệt đế để có thể chứng đạt.
Công đức của sự phát tâm, lập hạnh thấu tình, đạt lý như vậy, chỉ có Đức Phật mới là bậc thấu triệt.
Còn ví như chưa minh triệt, thì dù có chí tâm xuất gia mà vẫn còn rơi vào thiên chấp pháp nhỏ, không tương ứng với Bồ đề tâm, thì trọn không thể chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ đề.
Do đó, hỡi các giới tử! Các người phải phát tâm, thực hành Bốn hoằng thệ nguyện.
Quý vị hãy tha thiết chân thật nói lên!
10. Trao mười giới tướng:
- Pháp sư huấn thị:Hỡi các giới tử hãy lắng nghe! Các vị đã thụ trì 10 giới trọng nay tôi xin nhắc lại cho các vị nhớ rõ có ghi nhớ giữ gìn thì giới thể mới đựơc trang nghiêm
Bồ Tát có mười giới ở trong kho tàng vô tận, nếu sau khi đã thọ giới mà phạm, thì không còn là Bồ Tát, mất bốn mươi hai pháp của Hiền Thánh.
Vậy, quý vị hãy ghi nhớ mười giới tướng.
1- Hỡi các giới tử! Kể từ thân này cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được cố ý giết hại.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
2- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân phật, suốt khoảng thời gian đó không được cố ý trộm cắp.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
3- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được dâm dục với người nữ.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
4- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được cố ý nói dối.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
5- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật suốt trong khoảng thời gian đó không được cố ý uống rượu, bán rượu.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
6- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, suốt trong khoảng thời gian đó không được nói lỗi của hàng xuất gia và tại gia.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
7- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, suốt trong khoảng thời gian đó không được có ý khen mình chê người.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
8- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, suốt trong khoảng thời gian đó không được cố ý tham lam, bỏn sẻn.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
9- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được cố ý sân hận.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
10- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được phỉ báng Tam Bảo.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp:-Dạ được.
12. Huấn thị sau cùng và hồi hướng:
Hỡi các giới tử!
Quý vị đã thọ mười giới vô tận, hiển nhiên quý vị sẽ vượt hẳn bốn thứ ma, siêu xuất những khổ đau trong ba cõi. Và đối với quý vị từ đời này qua đời khác, giới pháp này không thể mất, nó thường tồn tại với quý vị, cho đến khi quý vị thành Phật.
Quý vị phải biết rằng! Lãnh thọ giới pháp y bát của Bồ Tát là như vậy, còn so với tất cả các giới đã lãnh thọ trước đó, thì Bồ Tát tịnh giới là tối thắng, là tối thượng là kho tàng công đức vĩ đại, vô lượng, vô biên, là tối thượng đệ nhất,
- Pháp sư huấn thị:Hỡi các giới tử hãy lắng nghe! Các vị đã thụ trì 10 giới trọng nay tôi xin nhắc lại cho các vị nhớ rõ có ghi nhớ giữ gìn thì giới thể mới đựơc trang nghiêm
Bồ Tát có mười giới ở trong kho tàng vô tận, nếu sau khi đã thọ giới mà phạm, thì không còn là Bồ Tát, mất bốn mươi hai pháp của Hiền Thánh.
Vậy, quý vị hãy ghi nhớ mười giới tướng.
1- Hỡi các giới tử! Kể từ thân này cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được cố ý giết hại.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
2- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân phật, suốt khoảng thời gian đó không được cố ý trộm cắp.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
3- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được dâm dục với người nữ.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
4- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được cố ý nói dối.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
5- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật suốt trong khoảng thời gian đó không được cố ý uống rượu, bán rượu.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
6- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, suốt trong khoảng thời gian đó không được nói lỗi của hàng xuất gia và tại gia.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
7- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, suốt trong khoảng thời gian đó không được có ý khen mình chê người.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
8- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, suốt trong khoảng thời gian đó không được cố ý tham lam, bỏn sẻn.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
9- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được cố ý sân hận.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: - Dạ được.
10- Hỡi giới tử! Kể từ thân này, cho đến khi thành tựu thân Phật, trong suốt khoảng thời gian đó không được phỉ báng Tam Bảo.Quý vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp:-Dạ được.
12. Huấn thị sau cùng và hồi hướng:
Hỡi các giới tử!
Quý vị đã thọ mười giới vô tận, hiển nhiên quý vị sẽ vượt hẳn bốn thứ ma, siêu xuất những khổ đau trong ba cõi. Và đối với quý vị từ đời này qua đời khác, giới pháp này không thể mất, nó thường tồn tại với quý vị, cho đến khi quý vị thành Phật.
Quý vị phải biết rằng! Lãnh thọ giới pháp y bát của Bồ Tát là như vậy, còn so với tất cả các giới đã lãnh thọ trước đó, thì Bồ Tát tịnh giới là tối thắng, là tối thượng là kho tàng công đức vĩ đại, vô lượng, vô biên, là tối thượng đệ nhất,
Hỡi các giới tử!
Quý vị đã thọ y bát Bồ Tát giới, thì nay mỗi nửa tháng, phải tụng Bồ Tát giới,đắp y Bồ tát giới, thọ bát đúng như sự quy định của luật không được bỏ quên.Do đó, đức Thích Ca Mâu Ni dạy trong Kinh Phạm Võng rằng: “Nếu người thọ trì Bồ Tát giới không tụng giới này, là không phải Bồ Tát, là không phải dòng dõi của Phật”.Lại nữa, không học Phật giới là bị tội. Do đó, tôi nay phó chúc cho quý vị với tâm niệm tốt đẹp như vậy, để quý vị hộ trì và sanh lòng kính trọng sâu xa, không được khinh thường.
Vậy, quý vị phải y lời giáo huấn mà phụng hành làm gương cho tât cả chúng sanh.
Quý vị đã thọ y bát Bồ Tát giới, thì nay mỗi nửa tháng, phải tụng Bồ Tát giới,đắp y Bồ tát giới, thọ bát đúng như sự quy định của luật không được bỏ quên.Do đó, đức Thích Ca Mâu Ni dạy trong Kinh Phạm Võng rằng: “Nếu người thọ trì Bồ Tát giới không tụng giới này, là không phải Bồ Tát, là không phải dòng dõi của Phật”.Lại nữa, không học Phật giới là bị tội. Do đó, tôi nay phó chúc cho quý vị với tâm niệm tốt đẹp như vậy, để quý vị hộ trì và sanh lòng kính trọng sâu xa, không được khinh thường.
Vậy, quý vị phải y lời giáo huấn mà phụng hành làm gương cho tât cả chúng sanh.
Hỡi quý vị giới tử!
Nay, quý vị hãy đem công đức thọ y bát Bồ tát giới này hướng về cõi phương Tây Tịnh Độ, như Ngài Thiện Tài Đồng Tử đã từng học khắp tất cả các bậc có hiểu biết và thành tựu tất cả các pháp môn, về sau lại gặp Bồ Tát Phổ Hiền giáo huấn, phát khởi mười hạnh nguyện về phương Tây Tịnh Độ thân cận đức A Di Đà mà viên thành đạo quả.
Vì sao? Vì hết thảy Bồ Tát phải qua vô lượng, vô số kiếp tu tập Lục độ vạn hạnh, kỳ hạn sau cùng là thành tựu pháp thân của Phật A Di Đà ở cõi Tịnh Độ. Và chính đó cũng là Phật pháp thân của Phật mười phương, đã là pháp thân thì luôn luôn an trú ở cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ.
Tuy nhiên, pháp thân đó không ngoài tự tâm của quý vị, chính tâm của quý vị là tự tánh của tịnh độ và cũng là Phật A Di Đà. Hồi hướng tự tánh tịnh độ như vậy, mới là sự hồi hướng chân thật.
Nay, quý vị hãy đem công đức thọ y bát Bồ tát giới này hướng về cõi phương Tây Tịnh Độ, như Ngài Thiện Tài Đồng Tử đã từng học khắp tất cả các bậc có hiểu biết và thành tựu tất cả các pháp môn, về sau lại gặp Bồ Tát Phổ Hiền giáo huấn, phát khởi mười hạnh nguyện về phương Tây Tịnh Độ thân cận đức A Di Đà mà viên thành đạo quả.
Vì sao? Vì hết thảy Bồ Tát phải qua vô lượng, vô số kiếp tu tập Lục độ vạn hạnh, kỳ hạn sau cùng là thành tựu pháp thân của Phật A Di Đà ở cõi Tịnh Độ. Và chính đó cũng là Phật pháp thân của Phật mười phương, đã là pháp thân thì luôn luôn an trú ở cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ.
Tuy nhiên, pháp thân đó không ngoài tự tâm của quý vị, chính tâm của quý vị là tự tánh của tịnh độ và cũng là Phật A Di Đà. Hồi hướng tự tánh tịnh độ như vậy, mới là sự hồi hướng chân thật.
■ Tự thọ:
Nghĩa là sau khi Đức Phật và các vị Bồ Tát đã diệt độ, khoảng trong một ngàn dặm hoàn toàn không có pháp sư, người cầu thọ Bồ Tát giới muốn đắc giới, thì tự mình quỳ xuống trước hình tượng của chư Phật hoặc Bồ Tát, chấp tay cung kính phát thệ để thọ giới.
Vị đó quỳ xuống chấp tay bạch như thế này:
Vị cầu thọ giới Bồ tát giới phải tác bạch ba lần như vậy. (Theo Bồ tát Anh lạc bản nghiệp kinh Đại chính 24, tr 1020; và Bồ tát yết ma văn, Đại chính 24, tr 1106; Du già sư địa luận 141, Đại chính 30, tr 521; Bồ tát địa trì 5, Đại chính 30, tr 917).
Ở phần tự thọ này, thì Kinh Phạm Võng và Phạm Võng thuật ký dạy rằng: “Nếu là tự thọ thì trước hết là phải sám hối, lấy giới hạn chủ yếu là thấy được tướng hảo của chư Phật hoặc Bồ Tát, nếu không thấy được tướng hảo của các Ngài thì không thể đắc giới”.
Kinh còn nói: “Sau khi đức Phật diệt độ, những người có tâm tốt muốn thọ Bồ Tát giới, thì ở trước tượng của đức Phật tự phát nguyện để thọ giới.
Phải sám hối bảy ngày trước hình tượng của Đức Phật, hễ thấy được tướng hảo của Ngài thì đắc giới. Nếu trong bảy ngày mà không thấy được tướng hảo của Ngài, thì phải sám hối tiếp, phát nguyện từ một tuần, hai tuần, ba tuần cho đến một năm, chủ yếu là phải nhìn thấy rõ tướng hảo của Phật, thì mới ở trước hình tượng của Đức Phật để tự thọ.
Nếu trong lúc sám hối mà không thấy rõ tướng hảo của đức Phật và Bồ Tát, thì vấn đề tự thọ là không thể đắc giới” (Phạm võng kinh, Đại chính 24, tr 1006; Phạm võng thuật ký, Đại chính 85, tr 728).
Như vậy, thọ và đắc giới có ba cách như đã nói ở trên, thì cách thọ và đắc giới từ chư Phật và Bồ Tát một cách trực tiếp là cách thọ và đắc giới thù thắng, rất tối thượng.
Cách thọ và đắc giới qua trung gian Vị Pháp sư là đắc giới bậc trung, và cách tự thọ trước hình tượng của đức Phật hoặc Bồ Tát là cách đắc thọ bậc hạ.
Tuy nhiên, ngày nay thọ Bồ Tát giới qua trung gian vị Pháp sư là cách thọ và đắc giới phổ biến và rất dễ thành tựu giới thể so với hai cách thọ kia.
Sự tác thành giới thể cho một người cầu thọ Bồ Tát giới vô cùng khó khăn, nhưng giới thể có thể bị rơi mất qua hai trường hợp sau đây:
Trường hợp một: Là thọ giả phạm một cách nghiêm trọng vào các giới tướng về Ba La Di của Bồ Tát.
Trường hợp nầy, đức Phật đã nói trong Kinh Phạm võng như sau:
“Hỡi những người học đạo thông minh! Mười ba la đề mộc xoa như vậy. Cần phải học tập, không nên phạm vào mảy may như đầu hạt bụi, chứ đừng nói phạm đầy đủ cả mười.
Nếu ai có phạm, thì thân hiện tại, Bồ đề tâm không thể phát triển được. Người đó cũng mất phẩm vị Quốc Vương, Chuyển Luân Vương, Tỷ khưu, Tỷ khưu ni, cũng mất luôn các phẩm vị thập Phát Thú, Thập Trưởng Dưỡng, thập Kim Cang, Thập địa và quả vị mầu nhiệm của Phật tính thường trú, hết thảy đều ẩn mất, sa vào trong ba đường ác, hai kiếp, ba kiếp không nghe được từ ngữ cha mẹ hay danh hiệu Phật, Pháp, Tăng. Vì lẽ đó mà mỗi một không nên phạm”. (Phạm võng kinh, Đại chính 24, tr 1005).
Tường hợp hai: Là hành giả xả bỏ đại nguyện đối với đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác. Nói cách khác, vị ấy đã thối mất Bồ Đề Tâm và đã tự mình tuyên bố xả bỏ.
Một hành giả vừa thọ Tỷ khưu và cả Bồ Tát giới, nếu xả bỏ Bồ Tát giới, thì có ảnh hưởng gì đến Tỷ Khưu giới không?
Nếu do thối thất Bồ Đề Tâm mà xả bỏ Bồ Tát giới, thì chỉ mất Bồ Tát giới mà không mất Tỷ khưu giới.
Nếu phạm vào căn bản giới của Tỳ khưu, thì không những mất giới Tỷ khưu mà giới Bồ tát cũng mất luôn.
Nếu phạm vào một trong sáu trọng giới ở phần sau của Bồ Tát Giới Phạm Võng, thì chỉ mất giới Bồ tát mà không mất giới Tỷ khưu.
Nếu khi thân hoại mạng chung, thì giới tỷ khưu tự xả mà Bồ Tát giới không mất, vì Bồ Tát giới tồn tại theo tâm, chứ không phải tồn tại theo thân.
Các trường hợp vừa thọ giới Tỷ khưu ni, Thức xoa, Sa di, Cận sự, Cận trú vừa thọ giới Bồ Tát thì sự đắc, thất chuẩn theo sự giải thích ở trên mà nghiệm biết. (Du già sư địa luận 40, Đại chính 30, tr 515; Phạm võng kinh thuật ký, Đại chính 85, tr 730).
Đối với Bồ Tát giới, sự thối thất Bồ Đề tâm là quan trọng hơn cả phạm vào Ba La Di. Vì phạm vào Ba La di chỉ làm cho Bồ Đề Tâm bị chướng ngại, không phát triển được liên tục ngay trong đời hiện tại, nhưng không bị rơi vào thiên chấp tà kiến.
Còn thối thất Bồ Đề Tâm nguyện, thì vĩnh viễn không còn tu tập để chứng đắc đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. Ấy mới biết Bồ Đề Tâm nguyện, đối với Bồ tát giới là hệ trọng đến mức nào? Hệ trọng đến nỗi Kinh Đại Bát Nhã đã nói về điều này một cách trịnh trọng như sau:
“Nếu các vị Bồ Tát xuất gia thọ trì tịnh giới mà không hồi hướng đến đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, thì các vị Bồ Tát kia chắc chắn không thành tựu Bồ Tát tịnh giới.
Như vậy, họ chỉ là hư danh, hoàn toàn không có nghĩa lý chân thật.
Nên biết, hạng ấy không phải là Bồ tát”. (Đại bát nhã kinh 584, Đại chính 7, tr 1020).
Vậy, những ai thọ và đắc Bồ Tát giới, thì phải giữ Bồ đề Tâm nguyện như giữ con mắt, như giữ hơi thở, như giữ tủy não của mình.³
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Vì những lý do khách quan nên bài đăng của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi xuất bản. Chúng tôi thành thật cáo lỗi vì sự bất tiện này. Kính mong quý vị hoan hỷ cho
Thay mặt Ban điều hành đạo tràng
Trưởng chúng
Cư sĩ Huệ Nhân